Lạm phát là gì?
Tháng tám 23, 2022

Các quy tắc phân tích liên thị trường (phần 1: Lạm phát là gì?)

By habinh

Các quy tắc liên thị trường luôn luôn hiện hữu, không chỉ trong các phân tích dài hạn mà ngay cả những giao dịch ngắn hạn hang ngày cũng cần phải biết rõ về các quy tắc liên thị trường mà tác giả John Murphy đã nhắc đến. Tôi sẽ cố gắng phân tích sâu hơn các quy tắc trên, bên cạnh đó sẽ là giải thích chi tiết từng giai đoạn của một chu kỳ kinh tế.

Dù có phân tích cái gì thì cũng mục đích là tiên đoán đúng xu hướng của thị trường, vậy cho nên Tôi sẽ cố gắng nói rõ các bước để phân tích các thông tin cơ bản và qua đó biết được market đang kỳ vọng điều gì, đó chính là đọc hiểu tâm lý market đó. Không phải đơn thuần nhìn vào cái chart vô hồn mà đoán biết được tâm lý thị trường đâu, các bạn nhớ là chart phản ảnh những gì market đang nghĩ, thế nhưng cái gì chi phối những kỳ vọng đó? Có phải chính là những tin tức cơ bản không?

Khi đọc hiểu được các tin tức cơ bản và biết được dòng tiền đang chạy vào thứ hàng hóa nào và market đang kỳ vọng điều gì ở đó thì có phải là các bạn đã nắm chắc được đến 80% cơ hội make $ trong xu hướng đó dúng không? Và khi nắm vững được những cái đó thì phần còn lại chỉ là áp dụng những kiến thức phân tích kỹ thuật học được để xác định thời điểm vào lệnh mà có thể hạn chế mức Stop Loss bé nhất đúng không?

Những gì Tôi nói có thể khiến nhiều bạn đọc nghĩ là Tôi đang “chém gió”, nhưng các bạn thử nghĩ xem nếu chỉ nhìn vào cái chart vô hồn đó thì xác xuất các bạn giao dịch thành công là bao nhiêu %. Điều này chính các bạn là người hiểu rõ nhất!

Như các bạn đã biết bốn bộ phận chính cấu thành nên thị trường tài chính trong các bài viết trước, cùng với đó là một số quy tắc liên thị trường chi tiết, thế nhưng những quy tắc liên thị trường riêng biệt đó nếu như không có sự kết hợp và hiểu rõ được bản chất cũng như mối tương quan chính thì sẽ rất khó trong quá trình phân tích, vì dù sao đi nữa tất cả các mối tương quan riêng lẻ đó cũng đều xuất phát từ những quy tắc tổng quát mà ra.

Và trước khi tìm hiểu chi tiết các mối tương quan thì chúng ta cần hiểu rõ một vài khái niệm cơ bản như lạm phát, lãi suất, chu kỳ kinh tế. Các số liệu kinh tế Tôi sẽ không nhắc lại nữa, những điều này các bạn có thể tìm hiểu ở các nguồn trên internet, và cũng rất nhiều cuốn sách viết khá chi tiết rồi, và hiểu các chỉ số kinh tế là điều tiên quyết trước khi tiến hành phân tích liên thị trường. Cùng với đó là các đặc điểm chính của những đồng tiền chính, những cái này cũng rất dễ tìm thấy trên internet…

Để trading thực sự thành công thì sẽ phải chấp nhận đánh đổi, sẽ phải trả những học phí rất cao và thực sự là nếu không tìm ra một phương pháp phù hợp thì chắc có lẽ sẽ rất khó để trụ lại với nghiệp trading này được. Tôi không tự tin khẳng định là phương pháp phân tích liên thị trường là đúng, thế nhưng trong những gì Tôi trải nghiệm thì với Tôi đó là phương pháp tốt nhất và Tôi cảm thấy tự tin mỗi khi phân tích và vào lệnh.

Dù có sai phải chấp nhận cut loss nhưng thường những lần sai sót đó của Tôi sẽ không ảnh hưởng quá nhiều đến tài khoản và dù sai thì Tôi vẫn có thể hiểu được nguyên nhân vì sao mình lại phân tích sai, từ đó Tôi sẽ đúc rút được những kinh nghiệm tốt hơn trong nghiệp trading của mình.

Với mỗi người sẽ có những phương pháp giao dịch cho riêng bản thân, và những gì Tôi chia sẻ ở trong cuốn sách này không phải là nhiều và cũng chỉ là những hạt cát nhỏ bé trên sa mạc rộng lớn mà thôi, vậy nên cả Tôi và Các Bạn sẽ phải cố gắng không ngừng, tích lũy kinh nghiệm, kiến thức nhiều hơn nữa, biển học là mênh mông mà…

Tiếp đây Tôi sẽ lần lượt đi qua những khái niệm cần thiết nhất trước khi tiến tới các quy luật liên thị trường phổ biến và các mối tương quan chính giữa các thị trường với nhau.

1. Lạm phát là gì?

Lạm phát là khái niệm không còn xa lạ gì với hầu hết mọi người, tuy nhiên để thật sự hiểu về lạm phát và những tác động của lạm phát đến việc thực hiện các chính sách của các ngân hàng trung ương thì không phải ai cũng nắm rõ.

Theo Investopedia định nghĩa: “Lạm phát”

Lạm phát là tỉ lệ mà tại đó mức chung của giá cả hàng hóa và dịch vụ đang tăng, và do đó sức mua của tiền tệ đang giảm. Ngân hàng trung ương cố gắng để hạn chế lạm phát và tránh tình trang giảm phát, từ đó giữ cho nền kinh tế vận hành ổn định.

Definition of Inflation:

Inflation is the rate at which the general level of prices for goods and services is rising and, consequently, the purchasing power of currency is falling. Central banks attempt to limit inflation, and avoid deflation, in order to keep the economy running smoothly.

Trong kinh tế học, lạm phát là một sự gia tăng liên tục của tống mức giá của hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế trong một khoảng thời gian. Khi giá cả tăng, mỗi đơn vị tiền tệ mua được ít hàng hóa và dịch vụ hơn. Do đó, lạm phát phản ánh sự giảm sức mua của một đơn vị tiền. Một sự mất giá trị thực trong các phương tiện trao đổi và đơn vị tính toán trong nền kinh tế.

Một thước đo chính của lạm phát giá cả là tỉ lệ lạm phát, phần trăm thay đổi hàng năm trong tổng số giá (thông thường là chỉ số giá tiêu dùng) theo thời gian. Sự đối lập với lạm phát là giảm phát.

Lạm phát ảnh hưởng đến một nền kinh tế theo những cách khác nhau, cả tích cực và tiêu cực. Tác động tiêu cực của lạm phát bao gồm sự gia tăng chi phí cơ hội của việc nắm giữ tiền bạc, sự không chắc chắn về lạm phát trong tương lai có thể không khuyến khích đầu tư và tiết kiệm, và nếu lạm phát đã tăng nhanh, tình trạng thiếu hàng hóa do người tiêu dùng tích trữ vì lo lắng giá sẽ tăng mạnh nữa trong tương lai.

Tuy nhiên tác động tích cực bao gồm việc giảm gánh nặng thực sự của nợ công và nợ tư nhân, giữ lãi suất danh nghĩa ở trên không để các ngân hàng trung ương có thể điều chỉnh lãi suất để ổn định nền kinh tế, và giảm tỉ lệ thất nghiệp với mức lương danh nghĩa cứng nhắc.

Các nhà kinh tế thường tin rằng tỉ lệ lạm phát cao và lạm phát phi mã được gây ra bởi sự tăng trưởng quá mức của cung tiền. Tuy nhiên tăng trưởng cung tiền không nhất thiết gây ra lạm phát. Lạm phát thấp hoặc vừa phải có thể là do biến động trong thực tế nhu cầu đối với hàng hóa và dịch vụ. Tuy nhiên quan điểm đồng thuận là một khoảng thời gian dài duy trì lạm phát là do cung tiền tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế.

Lạm phát là gì?
Lạm phát là gì?

Thuật ngữ lạm phát ban đầu được gọi là tăng lượng tiền trong lưu thông. Tuy nhiên hiện nay hầu hết đều sử dụng thuật ngữ lạm phát để đề cập đến một sự gia tăng của mức giá. Một sự gia tăng cung tiền có thể được gọi là lạm phát tiền tệ, để phân biệt với lạm phát giá cả tăng cao (lạm phát giá tiêu dùng). Các nhà kinh tế nói chung đồng ý rằng về lâu dài, lạm phát được gây ra bởi sự gia tăng về cung tiền.

Về mặt khái niệm, lạm phát để cập đến xu hướng chung của giá cả, chứ không nói riêng cho bất kỳ giá cụ thể nào. Ví dụ, nếu cùng một món hàng đó, nhiều người muốn mua cùng một thời điểm thì sẽ khiến cho lượng hàng hóa đó trở nên khan hiếm, và chính vì khan hiếm cho nên chủ sở hữu sẽ có thể nâng giá của sản phẩm đó lên, cũng tương tự như thời điểm đó người ta ưu chuộng sản phẩm (a) hơn sản phẩm (b) thì lúc này đây giá của sản phẩm (a) sẽ có xu hướng tăng cao hơn so với sản phẩm (b).

Những thay đổi này không liên quan đến lạm phát, chúng phản ánh sự thay đổi trong thị hiếu nhu cầu của con người. Lạm phát có liên quan đến giá trị của đồng tiền riêng của mình. Khi tiền tệ đã được liên kết với vàng, nếu như các mỏ vàng được tìm thấy nhiều hơn dẫn đến sản lượng vàng khai thác tăng lên, giá vàng và giá trị của đồng tiền sẽ giảm, và do đó giá cả các hàng hóa khác sẽ trở nên cao hơn.

Vì có rất nhiều biện pháp có thể có của các mức giá, có rất nhiều biện pháp có thể có của lạm phát giá cả. Thường xuyên nhất, thuật ngữ lạm phát đề cập đến một sự gia tăng chỉ số giá đại diện cho mức giá chung cho hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế. Các chỉ số giá tiêu dùng (CPI), Chỉ số giá các khoản chi tiêu tiêu dùng cá nhân (PCEPI) và giảm phát GDP là một số ví dụ về các chỉ số giá.

Tuy nhiên lạm phát cũng có thể được sử dụng để mô tả một mức tăng giá trong một tập hợp hẹp của tài sản, hàng hóa, dịch vụ trong nền kinh tế, chẳng hạn như hàng hóa (bao gồm thực phẩm, nhiên liệu, kim loại), tài sản hữu hình (như bất động sản), tài sản tài chính (như cổ phiếu, trái phiếu), dịch vụ (chẳng hạn như giải trí và chăm sóc sức khỏe), hoặc lao động.

Mặc dù giá trị của tài sản vốn thường được thổi phồng lên, điều này không nên nhầm lẫn với lạm phát như thời hạn quy định, một mô tả chính xác hơn cho sự gia tăng giá trị của một lớp tài sản vốn là sự đánh giá cao. Reuters-CRB Index (CCI), chỉ số giá sản xuất và chỉ số việc làm (ECI) là những ví dụ của chỉ số giá được sử dụng để đo lường lạm phát giá cả trong các lĩnh vực cụ thể của nền kinh tế.

Lạm phát lõi là thước đo lạm phát cho một tập hợp con của giá tiêu dùng rằng không bao gồm giá thực phẩm và năng lượng. Cục Dự trữ liên bang đặc biệt chú ý đến tỉ lệ lạm phát cơ bản để có được một ước tính tốt hơn vè xu hướng lạm phát chung trong tương lai.

CPI và lạm phát
CPI và lạm phát

Các chỉ số giá khác được sử dụng rộng rãi cho việc tính toán lạm phát giá cả bao gồm:

Chỉ số giá sản xuất (PPI) đo lường sự thay đổi trung bình trong giá nhà sản xuất trong nước nhận được cho đầu ra của họ. Điều này khác với chỉ số CPI trong đó trợ cấp giá, lợi nhuận và thuế có thể làm cho số tiền nhận của nhà sản xuất khác với những gì người tiêu dùng trả. Ngoài ra còn thường có một sự chậm trễ giữa sự gia tăng chỉ số PPI và bất kỳ sự gia tăng cuối cùng nào trong chỉ số CPI.

Chỉ số giá sản xuất đo áp lực được đưa vào sản xuất do chi phí nguyên liệu của họ. Điều này có thể được “truyền” cho người tiêu dùng, hoặc nó có thể được hấp thụ bởi lợi nhuận, hoặc được bù đắp bởi năng suất ngày càng tăng. Ở Ấn Độ và Hoa Kỳ, một phiên bản cũ của PPI được gọi là Chỉ số giá bán buôn.

Chỉ số giá hàng hóa, đo lường giá của một lựa chọn các mặt hàng. Hiện nay chỉ số giá hàng hóa được gia quyển bằng tầm quan trọng tương đối của các thành phần đối với chi phí “tất cả trong” một nhân công.

Chỉ số giá cơ bản: vì giá thực phẩm và dầu có thể thay đổi nhanh chóng do sự thay đổi trong điều kiện cung và cầu trong thị trường thực phẩm và dầu, nó có thể khó phát hiện các xu hướng dài hạn trong mức giá khi những giá này được bao gồm. Vì vậy hầu hết cơ quan thống kê cũng báo cáo một đo lường ‘lạm phát cơ bản’, trong đó loại bỏ các thành phần dễ thay đổi giá thành nhất (như thực phẩm và dầu) khỏi một chỉ số giá rộng như chỉ số CPI.

Vì lạm phát cơ bản là ít bị ảnh hưởng bởi nguồn cung ngắn hạn và điều kiện nhu cầu tại các thị trường cụ thể, các ngân hàng trung ương dựa vào nó để đo lường tốt hơn các tác động lạm phát của chính sách tiền tệ hiện tại.

Người tiêu dùng phải rất cân nhắc chi tiêu trong các thời kỳ lạm phát
Người tiêu dùng phải rất cân nhắc chi tiêu trong các thời kỳ lạm phát

Các đo lường lạm phát phổ biến khác là:

Hệ số giảm phát GDP đo sự tăng hoặc giảm giá của tất cả hàng hóa và dịch vụ mà các doanh nghiệp có quốc tịch khác nhau được sản xuất và phục vụ trong lãnh thổ một quốc gia. Bộ Thương mại Mỹ công bố một loạt số giảm phát GDP của Mỹ, được định nghĩa là số đo GDP danh nghĩa chia cho số đo GDP thực tế của nó.

Lạm phát khu vực Cục Thống kê lao động phân các tính toán CPI-U xuống cho các vùng khác nhau của Mỹ.

Lạm phát lịch sử trước khi thu thập dữ liệu kinh tế phù hợp đã trở thành tiêu chuẩn cho các chính phủ, và với mục đích so sánh tuyệt đối, chứ không phải là tiêu chuẩn tương đối của cuộc sống, nhiều nhà kinh tế đã tính toán con số lạm phát được ban cho. Hầu hết các dữ liệu lạm phát trước đầu thế kỷ 20 được quy gán dựa trên chi phí hàng hóa được biết đến, chứ không phải biên soạn vào thời điểm đó. Nó cũng được sử dụng để điều chỉnh cho sự khác biệt trong tiêu chuẩn thực sự của cuộc sống cho sự hiện diện của công nghệ.

Lạm phát giá tài sản là sự gia tăng quá mức trong giá tài sản thực và tài chính, chẳng hạn như cổ phần (vốn) và bất động sản. Trong khi không có chỉ số chấp nhận rộng rãi của loại hình này, một số ngân hàng trung ương đã cho rằng sẽ là tốt hơn khi nhằm mục đích bình ổn đo lường lạm phát mức giá chung rộng lớn hơn bao gồm một số giá tài sản, thay vì chỉ ổn định CPI và lạm phát cơ bản.

Lý do là bằng việc tăng các lãi suất khi giá cổ phiếu hoặc giá bất động sản tăng, và làm giảm chúng khi giá tài sản giảm, ngân hàng trung ương có thể thành công hơn trong việc tránh bong bóng và bị treo giá tài sản.

2. Tác động của lạm phát đến nền kinh tế:

Lạm phát có nhiều loại, cho nên cũng có nhiều mức độ ảnh hưởng khác nhau đối với nền kinh tế. Xét trên góc độ tương quan, trong một nền kinh tế mà lạm phát được coi là nỗi lo của toàn xã hội và người ta có thể nhìn thấy tác động của nó.

Đối với lĩnh vực sản xuất:

Đối với nhà sản xuất, tỷ lệ lạm phát cao làm cho giá đầu vào và đầu ra biến động không ngừng, gây ra sự ổn định giả tạo của quá trình sản xuất. Sự mất giá của đồng tiền làm vô hiệu hoá hoạt động hạch toán kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh – sản xuất ở một vài doanh nghiệp có thể thay đổi, gây ra những xáo động về kinh tế. Nếu một doanh nghiệp nào đó có tỷ suất lợi nhuận thấp hơn lạm phát sẽ có nguy cơ phá sản rất lớn.

Đối với lĩnh vực lưu thông:

Lạm phát thúc đẩy quá trình đầu cơ tích trữ dẫn đến khan hiếm hàng hoá. Các nhà doanh nghiệp thấy rằng việc đầu tư vốn vào lĩnh vực lưu thông. Thậm chí khi lạm phát trở nên khó phán đoán thì việc đầu tư vốn vào lĩnh vực sản xuất sẽ gặp phải rủi ro cao. Do đó nhiều người tham gia vào lĩnh vực lưu thông nên lĩnh vực này trở nên hỗn loạn. Tiền ở trong tay những người vừa mới bán hàng xong lại nhanh chóng bị đẩy vào kênh lưu thông, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng vọt và điều này làm thúc đẩy lạm phát gia tăng.

Đối với lĩnh vực tiền tệ, tín dụng:

Lạm phát làm cho quan hệ tín dụng, thương mại và ngân hàng bị thu hẹp. Số người gửi tiền vào ngân hàng giảm đi rất nhiều. Về phía hệ thống ngân hàng, do lượng tiền gửi vào giảm mạnh nên không đáp ứng được nhu cầu của người đi vay, cộng với việc sụt giá của đồng tiền quá nhanh, sự điều chỉnh lãi suất tiền gửi không làm an tâm những người hiện

có lượng tiền mặt nhàn rỗi trong tay. Về phía người đi vay, họ là những người có lợi lớn nhờ sự mất giá đồng tiền một cách nhanh chóng. Do vậy, hoạt động của hệ thống ngân hàng không còn bình thường nữa. Chức năng kinh doanh tiền tệ bị hạn chế, các chức năng của tiền tệ không còn nguyên vẹn bởi khi có lạm phát thì chẳng có ai tích trữ của cải hình thức tiền mặt.

Đối với chính sách kinh tế tài chính của Nhà nước:

Lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hoá. Khi lạm phát xảy ra những thông tin trong xã hội bị phá huỷ do biến động của giá cả làm cho thị trường bị rối loạn. Người ta khó phân biệt được những doanh nghiệp làm ăn tốt và kém. Đồng thời lạm phát làm cho nhà nước thiếu vốn, do đó nhà nước không còn đủ sức cung cấp tiền cho các khoản dành cho phúc lợi xã hội bị cắt giảm… các ngành, các lĩnh vực dự định được Chính phủ đầu tư và hỗ trợ vốn bị thu hẹp lại hoặc không có gì.

Một khi ngân sách nhà nước bị thâm hụt thì các mục tiêu cải thiện và nâng cao đời sống kinh tế xã hội sẽ không có điều kiện thực hiện được.

3. Tác động tiêu cực:

Lạm phát và lãi suất:

Lạm phát và lãi suất
Lạm phát và lãi suất

Lạm phát của các quốc gia trên thế giới khi xảy ra cao và triền miên có ảnh hưởng xấu đến mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị và xã hội của một quốc gia. Trong đó, tác động đầu tiên của lạm phát là tác động lên lãi suất.

Do đó khi tỷ lệ lạm phát tăng cao, nếu muốn cho lãi suất thật ổn định và thực dương thì lãi suất sanh nghĩa phải tăng lên theo tỷ lệ lạm phát. Việc tăng lãi suất danh nghĩa sẽ dẫn đến hậu quả mà nền kinh tế phải gánh chịu là suy thoái kinh tế và thất nghiệp gia tăng.

Đây chính là điều quan trọng nhất mà chúng ta cần nắm vững, giữa lạm phát và lãi suất là hai mặt của một vấn đề là ở chỗ đó, và trong quá trình phân tích những thời điểm thị trường đồn đoán về khả năng nâng lãi suất, ví dụ như giai đoạn FED luôn nói duy trì lộ trình nâng lãi suất đó, thì trong những thời điểm như thế này người ta sẽ nhìn vào lạm phát đầu tiên.

Như các bạn thấy đó trong suốt hơn 1 năm FED lên tiếng việc nang lãi suất thì trong cuộc họp nào cũng nhấn mạnh là kỳ vọng lạm phát sẽ tăng trong tương lai và đạt mục tiêu 2%… có nghĩa là FED lo ngại rằng lạm phát quá thấp mà lại nâng lãi suất nữa thì sẽ là con dao 2 lưỡi, và có thể sẽ có những tác động xấu đến nền kinh tế.

Lạm phát và thu nhập thực tế:

Giữa thu nhập thực tế và thu nhập danh nghĩa của người lao động có quan hệ với nhau qua tỷ lệ lạm phát. Khi lạm phát tăng lên mà thu nhập danh nghĩa không thay đổi thì làm cho thu nhập thực tế của người lao động giảm xuống.

Lạm phát không chỉ làm giảm giá trị thật của những tài sản không có lãi mà nó còn làm hao mòn giá trị của những tài sản có lãi, tức là làm giảm thu nhập thực từ các khoản lãi, các khoản lợi tức. Đó là do chính sách thuế của nhà nước được tính trên cơ sở của thu nhập danh nghĩa. Khi lạm phát tăng cao, những người đi vay tăng lãi suất danh nghĩa để bù vào tỷ lệ lạm phát tăng cao mặc dù thuế suất vẫn không tăng.

Từ đó, thu nhập ròng (thực) của người cho vay bằng thu nhập danh nghĩa trừ đi tỷ lệ lạm phát bị giảm xuống sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế xã hội. Như suy thoái kinh tế, thất nghiệp gia tăng, đời sống của người lao động trở nên khó khăn hơn sẽ làm giảm lòng tin của dân chúng đối với Chính phủ …

Tác hại của lạm phát
Tác hại của lạm phát

Lạm phát và phân phối thu nhập không bình đẳng:

Khi lạm phát tăng lên, giá trị của đồng tiền giảm xuống, người đi vay sẽ có lợi trong việc vay vốn để đầu cơ kiếm lợi. Do vậy càng tăng thêm nhu cầu tiền vay trong nền kinh tế, đẩy lãi suất lên cao.

Lạm phát tăng cao còn khiến những người thừa tiền và giàu có, dùng tiền của mình vơ vét và thu gom hàng hoá, tài sản, nạn đầu cơ xuất hiện, tình trạng này càng làm mất cân đối nghiêm trọng quan hệ cung – cầu hàng hoá trên thị trường, giá cả hàng hoá cũng lên cơn sốt cao hơn. Cuối cùng, những người dân nghèo vốn đã nghèo càng trở nên khốn khó hơn.

Họ thậm chí không mua nổi những hàng hoá tiêu dùng thiết yếu, trong khi đó, những kẻ đầu cơ đã vơ vét sạch hàng hoá và trở nên càng giàu có hơn. Tình trạng lạm phát như vậy sẽ có thể gây những rối loạn trong nền kinh tế và tạo ra khoảng cách lớn về thu nhập, về mức sống giữa người giàu và người nghèo.

Lạm phát và nợ quốc gia:

Lạm phát cao làm cho Chính phủ được lợi do thuế thu nhập đánh vào người dân, nhưng những khoản nợ nước ngoài sẽ trở nên trầm trọng hơn. Chính phủ được lợi trong nước nhưng sẽ bị thiệt với nợ nước ngoài. Lý do là vì: lạm phát đã làm tỷ giá tăng và đồng tiền trong nước trở nên mất giá nhanh hơn so với đồng tiền nước ngoài tính trên cá khoản nợ.

4. Tác động tích cực:

Lạm phát không phải bao giờ cũng gây nên những tác hại cho nền kinh tế. Khi tốc độ lạm phát vừa phải đó là từ 2-5% ở các nước phát triển và dưới 10% ở các nước đang phát triển sẽ mang lại một số lợi ích cho nền kinh tế như sau:

+ Kích thích tiêu dùng, vay nợ, đầu tư … giảm bớt thất nghiệp trong xã hội.

+ Cho phép chính phủ có thêm khả năng lựa chọn các công cụ kích thích đầu tư vào những lĩnh vực kém ưu tiên thông qua mở rộng tín dụng, giúp phân phối lại thu nhập và các nguồn lực trong xã hội theo các định hướng mục tiêu và trong khoảng thời gian nhất định có chọn lọc. Tuy nhiên, đây là công việc khó và đầy mạo hiểm nếu không chủ động thì sẽ gây nên hậu quả xấu.

Tóm lại, lạm phát là căn bệnh mãn tính của nền kinh tế thị trường, nó vừa có tác hại lẫn lợi ích. Khi nền kinh tế có thể duy trì, kiềm chế và điều tiết được lạm phát ở tốc độ vừa phải thì nó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

5. Kiểm soát lạm phát:

Có nhiều phương pháp và chính sách đã và đang được sử dụng để kiểm soát lạm phát.

Kích thích tăng trưởng kinh tế:

Nếu tăng trưởng kinh tế phù hợp với sự tăng trưởng của cung tiền, lạm phát sẽ có thể không xảy ra khi các nhân tố khác cũng cân bằng nhau. Một số lượng lớn các yếu tố có thể ảnh hưởng đến tốc độ của cả hai. Ví dụ: đầu tư trong sản xuất thị trường, cơ sở hạ tầng, giáo dục, và chăm sóc y tế dự phòng tất cả có thể tăng trưởng một nền kinh tế với số lượng lớn hơn chi tiêu đầu tư.

Chính sách tiền tệ:

Ngày nay, công cụ chính để kiểm soát lạm phát là chính sách tiền tệ. Hầu hết các ngân hàng trung ương được giao nhiệm vụ giữ lãi suất cho vay liên ngân hàng ở mức thấp, thường là cho một tỷ lệ mục tiêu khoảng 2% đến 3% mỗi năm, và trong một phạm vi lạm phát mục tiêu thấp, ở đâu đó trong khoảng từ 2% đến 6% mỗi năm. Một lạm phát dương thấp thường là mục tiêu, do các điều kiện giảm phát được xem là nguy hiểm cho sức khỏe của nền kinh tế.

Có một số phương pháp đã được đề xuất để kiểm soát lạm phát. Các ngân hàng Trung ương như Cục Dự trữ Liên bang Mỹ có thể ảnh hưởng đến lạm phát ở một mức độ đáng kể thông qua thiết lập lãi suất và thông qua các hoạt động khác. Các lãi suất cao và tốc độ tăng trưởng cung tiền chậm chạp là những cách truyền thống thông qua đó ngân hàng trung ương chống lại hoặc ngăn chặn lạm phát, mặc dù chúng có cách tiếp cận khác nhau.

Ví dụ, một số theo một mục tiêu lạm phát đối xứng trong khi những phương pháp khác chỉ kiểm soát lạm phát khi nó lên trên một mục tiêu, cho dù rõ ràng hay ngụ ý.

Những người theo chủ nghĩa tiền tệ nhấn mạnh việc duy trì tốc độ tăng trưởng tiền ổn định, và sử dụng chính sách tiền tệ để kiểm soát lạm phát (tăng lãi suất, làm chậm sự gia tăng cung tiền). Những người theo học thuyết Keynes nhấn mạnh việc giảm tổng cầu trong quá trình mở rộng kinh tế và việc gia tăng nhu cầu trong thời kỳ suy thoái để giữ lạm phát ổn định. Kiểm soát tổng cầu có thể đạt được bằng cách sử dụng cả chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa (tăng thuế hoặc giảm chi tiêu của chính phủ để giảm cầu).

Tỷ giá hối đoái cố định:

Dưới một chế độ tỷ giá hối đoái cố định, đồng tiền của một quốc gia được gắn về giá trị với một đồng tiền khác hoặc một rổ tiền tệ khác (hoặc đôi khi đến một thước đo giá trị, chẳng hạn như vàng). Một tỷ giá hối đoái cố định thường được sử dụng để ổn định giá trị đồng tiền, đối diện đồng tiền mà nó cố định vào. Nó cũng có thể được sử dụng như một phương tiện để kiểm soát lạm phát.

Tuy nhiên, vì giá trị của đồng tiền tham chiếu tăng lên và hạ xuống, do đó, đồng tiền không ổn định so với nó. Điều này về cơ bản có nghĩa là tỷ lệ lạm phát của nước có chế độ tỷ giá hối đoái cố định bị xác định bởi tỷ lệ lạm phát của nước mà đồng tiền này cố định vào. Ngoài ra, tỷ giá hối đoái cố định ngăn chặn chính phủ trong việc sử dụng chính sách tiền tệ trong nước để đạt được sự ổn định kinh tế vĩ mô.

Theo thỏa thuận Bretton Woods, hầu hết các nước trên thế giới đã có đồng tiền được cố định với đồng đô-la Mỹ. Lạm phát hạn chế này tại các quốc gia, nhưng cũng đẩy họ đến việc tiếp xúc với nguy cơ của các tấn công đầu cơ. Sau khi thỏa thuận Bretton Woods bị phá vỡ trong những năm 1970, các quốc gia dần dần chuyển sang tỷ giá hối đoái thả nổi.

Tuy nhiên, trong phần sau của thế kỷ 20, một số nước trở lại tỷ giá hối đoái cố định như một phần của một nỗ lực để kiềm chế lạm phát. Chính sách sử dụng một tỷ giá hối đoái cố định để kiểm soát lạm phát này đã được sử dụng ở nhiều quốc gia ở Nam Mỹ trong phần sau của thế kỷ 20 (ví dụ: Argentina (1991-2002), Bolivia, Brazil và Chile

Bản vị vàng:

Sau khi bạc bị khai tử vàng là thứ hiện kim được nhắm đến tiếp theo
Sau khi bạc bị khai tử vàng là thứ hiện kim được nhắm đến tiếp theo

Dưới một bản vị vàng, tiền giấy có thể chuyển đổi thành các lượng vàng cố định được xác định từ trước.

Bản vị vàng là một hệ thống tiền tệ trong đó phương tiện trao đổi phổ biến của một vùng là tiền giấy mà thường có thể chuyển đổi tự do với một lượng cố định được đặt ra từ trước của vàng. Bản vị này quy định cụ thể cách mà sự ủng hộ vàng sẽ được thực hiện, bao gồm cả số lượng tiền vàng trên một đơn vị tiền tệ.

Loại tiền tệ chính nó không có giá trị bẩm sinh, nhưng được chấp nhận bởi các thương nhân vì nó có thể được hoàn trả lại cho tiền vàng tương đương. Mỹ chứng nhận bạc, ví dụ, có thể được hoàn trả cho một phần bạc thực tế.

Bản vị vàng đã bị bỏ rơi một phần thông qua việc áp dụng quốc tế của Hệ thống Bretton Woods. Theo hệ thống này tất cả các loại tiền tệ chính khác bị buộc ở mức giá cố định với đồng đô-la Mỹ, mà bản thân nó đã gắn liền với vàng ở mức 35 USD một ounce. Hệ thống Bretton Woods bị phá vỡ vào năm 1971, làm cho hầu hết các nước chuyển sang tiền tệ sắc lệnh – tiền tệ được hỗ trợ chỉ bởi luật pháp của đất nước đó.

Theo Lawrence H. White, một Giáo sư Lịch sử kinh tế F.A. Hayek “người làm nên giá trị cho truyền thống Áo”, các nền kinh tế dựa trên bản vị vàng hiếm khi gặp lạm phát trên 2 phần trăm mỗi năm. Tuy nhiên, trong lịch sử, Mỹ đã nhìn thấy lạm phát hơn 2% vài lần và đỉnh điểm lạm phát cao hơn theo bản vị vàng khi so sánh với lạm phát sau bản vị vàng.

Dưới một bản vị vàng, tỷ lệ lạm phát (hoặc giảm phát) dài hạn sẽ có thể bị xác định bởi tốc độ tăng trưởng của nguồn cung vàng so với tổng sản lượng. Các phê bình cho rằng điều này sẽ gây ra biến động tùy ý trong tỷ lệ lạm phát và chính sách tiền tệ về cơ bản sẽ được xác định bằng việc khai thác vàng.

Kiểm soát tiền lương và giá cả:

Một phương pháp khác đã được thử trong quá khứ là kiểm soát tiền lương và giá cả (chính sách thu nhập). Việc kiểm soát tiền lương và giá cả kết hợp với phân phối đã thành công trong môi trường chiến tranh. Tuy nhiên, việc sử dụng chúng trong các bối cảnh khác là hỗn hợp hơn rất nhiều. Thất bại đáng chú ý của việc sử dụng bao gồm áp đặt kiểm soát tiền lương và giá cả năm 1972 bởi Richard Nixon. Ví dụ thành công hơn bao gồm Hòa ước giá cả và thu nhập tại Úc và Thỏa hiệp Wassenaar tại Hà Lan.

Nói chung, kiểm soát tiền lương và giá cả được coi là một biện pháp tạm thời và đặc biệt, chỉ có hiệu quả khi kết hợp với các chính sách được thiết kế để làm giảm những nguyên nhân cơ bản của lạm phát trong chế độ kiểm soát tiền lương và giá cả, ví dụ, chiến thắng cuộc chiến đang chiến đấu. Chúng thường có tác dụng hư hỏng, do các tín hiệu méo mó mà chúng gửi cho thị trường.

Giá thấp giả tạo thường gây ra phân phối và sự thiếu hụt và khuyến khích đầu tư trong tương lai, dẫn đến tình trạng thiếu nhưng xa hơn. Phân tích kinh tế thông thường là bất kỳ sản phẩm hoặc dịch vụ mà dưới giá đều được tiêu thụ quá nhiều.

Kiểm soát tiền lương và giá cả
Kiểm soát tiền lương và giá cả

Ví dụ, nếu giá chính thức của bánh mì là quá thấp, sẽ có quá ít bánh mì với giá chính thức, và có quá ít đầu tư trong việc làm bánh mì của thị trường để đáp ứng nhu cầu trong tương lai, do đó làm trầm trọng thêm các vấn đề trong lâu dài.

Kiểm soát tạm thời có thể bổ sung cho một cuộc suy thoái như là một cách để chống lạm phát: điều khiển làm cho suy thoái kinh tế hiệu quả hơn như một cách để chống lạm phát (làm giảm sự cần thiết phải tăng tỷ lệ thất nghiệp), trong khi suy thoái kinh tế ngăn chặn các loại biến dạng mà kiểm soát gây ra khi nhu cầu cao.

Tuy nhiên, nói chung những lời khuyên của các nhà kinh tế không phải là áp đặt kiểm soát giá cả mà là tự do hóa giá cả bằng cách giả định rằng nền kinh tế sẽ điều chỉnh và từ bỏ hoạt động kinh tế mang lại lợi nhuận. Hoạt động thấp hơn sẽ đặt nhu cầu ít hơn bất cứ điều gì trên mặt hàng được dẫn dắt lạm phát, cho dù lao động, tài nguyên, và lạm phát sẽ giảm với tổng sản lượng kinh tế.

Điều này thường tạo ra một cuộc suy thoái nghiêm trọng, như năng lực sản xuất được phân bổ lại và do đó thường rất phổ biến với những người mà sinh kế bị phá hủy.

Trợ cấp chi phí sinh hoạt:

Sức mua thực tế của các khoản thanh toán cố định đang bị xói mòn bởi lạm phát trừ khi chúng được điều chỉnh lạm phát để giữ giá trị thực sự không đổi. Ở nhiều nước, hợp đồng lao động, trợ cấp hưu trí, và các quyền lợi của chính phủ (ví dụ như an sinh xã hội) được gắn với một chỉ số chi phí sinh hoạt, thường đến chỉ số giá tiêu dùng.

Một trợ cấp chi phí sinh hoạt (COLA) điều chỉnh lương dựa trên những thay đổi trong chỉ số chi phí sinh hoạt. Tiền lương thường được điều chỉnh hàng năm trong nền kinh tế lạm phát thấp. Trong khi lạm phát phi mã nó được điều chỉnh thường xuyên hơn. Chúng cũng có thể được gắn với một chỉ số giá sinh hoạt mà thay đổi theo vị trí địa lý khi di chuyển nhân viên.

Khoản điều chỉnh hàng năm trong hợp đồng lao động có thể chỉ định hồi tố hoặc tăng tỷ lệ phần trăm tương lai trong lương công nhân mà không bị ràng buộc với bất kỳ chỉ số nào. Những gia tăng trả tiền được đàm phán này được gọi một cách thông tục là các điều chỉnh chi phí sinh hoạt (“COLA”) hoặc gia tăng chi phí sinh hoạt vì sự tương đồng của chúng với các gia tăng gắn liền với các chỉ số được xác định bên ngoài.

6. Một ví dụ thực tiễn: TẠI SAO NHÀ NƯỚC KHÔNG IN THẬT NHIỀU TIỀN ?

Bạn và 10 người nữa bị lạc trôi dạt vào một đảo hoang trên biển, trên đảo chỉ là bãi cát. Thức ăn, thứ uống không có. Lúc này bạn ước có quả dưa hấu trôi qua hay ước có cục đô la trôi qua => Nhà nước có nên in tiền trong lúc này không?

Trường hợp, trên đảo này có vùng dưa hấu đủ để 11 người này (có bạn trong đó) sống cho đến khi có cứu trợ tìm thấy. Gần đó có 3 người cũng bị kẹt trên một đảo không có gì hết ngoài cái bì tiền, và họ mang tiền sang mua dưa hấu nơi bạn, vậy bạn có bán dưa để lấy tiền không.

Như vậy, khi không có giá trị của cải được tạo ra thì đồng tiền có in ra nhiều mấy cũng không có giá trị.

Trong quan hệ tài chính quốc tế:

Xét 2 quốc gia Việt Nam và Mỹ, tỷ giá hiện tại 20,000 VND/$. Giả sử Việt Nam in thêm rất nhiều tiền, trong khi các yếu tố khác không đổi. Điều này làm cho hàng hóa Việt Nam trở nên rất đắt đỏ. Người dân Việt Nam có nhiều VNĐ sẽ thấy được lợi ích khi mua hàng hóa ở Mỹ do rẻ hơn tương đối (lúc trước mua 1 bánh mì=1$ và bây giờ vẫn vậy), nhưng để mua được hàng Mỹ thì họ phải đổi VND lấy $ => nhu cầu $ tăng, nghĩa là $ sẽ tăng giá. Lúc này giá quy đổi 1$> 20,000VND, có thể là 30,000VND chẳng hạn.

Nói chung là người Việt Nam không tìm thấy được lợi ích gì từ việc phát hành thêm tiền cả.

Chống lạm phát
Chống lạm phát

TÓM LẠI: Hãy hình dung, mỗi ngày nền kinh tế chỉ sản xuất ra được 1 cái bánh, trong khi nhà nước in ra lượng tiền quá nhiều. Điều này làm cho cái bánh trở nên đắt đỏ, nói khác hơn những đồng tiền mới sẽ làm mất giá trị những đồng tiền cũ. Bản thân tiền chỉ là một tờ giấy có giá trị quy đổi chứ không có giá trị thật sự như vàng/bạc hay kim cương nên tình trạng mất giá rất dễ xảy ra nếu Ngân hàng Trung ương không tính toán tốt.

Ngắn gọn, tăng gấp đôi lượng tiền lưu thông trong khi sức mua giữ nguyên sẽ làm giảm giá trị đồng tiền xuống 1/2. Người dân sẽ mất lòng tin vào đồng tiền.

Ngày nay, với việc phát triển thương mại quốc tế và tài chính quốc tế, việc phát hành tiền nhiều hay ít phụ thuộc vào sức mạnh kinh tế của quốc gia và cách mà chính phủ của quốc gia đó điều khiển nền kinh tế.

Vậy là chúng ta đã tìm hiểu khá chi tiết về lạm phát, và điều mà Tôi muốn nhấn mạnh ở đây là tầm quan trọng của giá cả hàng hóa và những diễn biến trên thị trường hàng hóa sẽ chính là thước đó sớm nhất để biết được lạm phát, cùng với đó là nhận thấy được tầm quan trọng của việc theo dõi biến động giá cả của các món hàng các bạn sử dụng hàng ngày. Và những quan sát này, những nhận xét mang tính khách quan này sẽ là những nền tảng cho những phân tích liên thị trường sau này.

Phương cách điều hành của các ngân hàng trung ương trên thế giới ngày nay đều dựa vào những dấu hiệu của lạm phát để có những quyết định lãi suất ngắn hạn hợp lý. Khi lạm phát cao thì các ngân hàng trung ương sẽ nâng lãi suất, khi lạm phát không có hoặc đối mặt với giảm phát thì các ngân hàng trung ương sẽ tiền hành cắt giảm lãi suất cho phù hợp, và cho đến khi nhận thấy lạm phát trong tương lai có thể tăng thì các ngân hàng trung ương sẽ ngừng việc giảm lãi suất.