1. Thành phần tham gia thị trường tiền tệ
Không giống như một thị trường chứng khoán, thị trường tiền tệ (ngoại hối) được chia thành các cấp độ khác nhau. Trên cùng là thị trường liên ngân hàng, được tạo thành từ các ngân hàng thương mại lớn nhất và các securities dealers. Trong thị trường liên ngân hàng sự khác biệt giữa chênh lệch giá mua và giá bán không chịu tác động từ những người giao dịch bên ngoài, có nghĩa là mức chênh lệch được định sẵn bởi các liên ngân hàng.
Sự khác biệt giữa giá mua và giá bán tùy thuộc vào khối lượng. Nếu một ngân hàng lớn đảm bảo một khối lượng lớn các giao dịch với số tiền lớn, họ có thể yêu cầu một sự khác biệt nhỏ trong chênh lệch giữa giá mua và bán. Những ngân hàng lớn đó chiếm 39% tổng tất cả các giao dịch liên ngân hàng, còn lại là các ngân hàng nhỏ, các tập đoàn lớn đa quốc gia trên toàn thế giới, thậm chí là một số nhỏ các nhà hoạch định thị trường.
Theo Galati và Melvin, các quỹ hưu trí, công ty bảo hiểm, quỹ tương hỗ và các nhà đầu tư khác đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong thị trường tài chính nói chung, và đặc biệt là trong thị trường Forex, kể từ đầu những năm 2000 quỹ Hedge đã phát triển đáng kể trong giai đoạn 2001- 2004, cả về số lượng và kích thước tổng thể. Ngân hàng trung ương cũng tham gia vào thị trường ngoại hối để căn chỉnh tiền tệ cho nhu cầu kinh tế của họ.

Công ty thương mại: Một phần quan trọng của thị trường ngoại hối xuất phát từ hoạt động tài chính của các công ty nhằm tìm kiếm ngoại tệ để thanh toán hành hóa/dịch vụ quốc tế. Công ty thương mại thường xuyên giao dịch sô lượng khá nhỏ so với các ngân hàng hoặc các nhà đầu cơ, và các ngành nghề của họ thường có tác động nhỏ và ngắn hạn trên giá trị thị trường.
Tuy nhiên, dòng chảy thương mại là một yếu tố quan trọng trong việc định hướng lâu dài tỉ giá hối đoái của đồng tiền. Một số tập đoàn đa quốc gia (MNCs) có thể có một tác động không thể đoán trước khi vị trí rất lớn được bảo hiểm do tiếp xúc mà không được biết đến rộng rãi bởi các thị trường thành viên khác.
Ngân hàng trung ương: Ngân hàng trung ương quốc gia đóng một vai trò quan trọng trong thị trường ngoại hối. Họ cố gắng để kiểm soát cung tiền, lạm phát hoặc lãi suất và thường có các tỉ lệ mục tiêu chính thức hoặc không chính thức cho đồng tiền của họ.
Họ có thể sử dụng dự trữ ngoại hối để bình ổn thị trường của mình. Tuy nhiên hiệu quả của các ngân hàng trung ương “ổn định đầu cơ” là chưa thuyết phục vì các ngân hàng trung ương không bị phá sản nếu họ gây ra những thiệt hại lớn, giống như những trader khác và không có bằng chứng thuyết phục rằng họ làm cho một giao dịch có lợi nhuận.
Foreign Exchange Fixing: Ấn định tỉ giá hối đoái là tỉ giá tiền tệ ngày càng cố định của ngân hàng quốc gia của mỗi nước. Ý tưởng là ngân hàng trung ương sử dụng fixing time và thay đổi tỉ giá hối đoái để đánh giá đồng tiền của họ. Sửa đổi tỉ giá hối đoái phản ảnh giá trị thực của trạng thái cân bằng trên thị trường.
Ngân hàng, dealers và traders sử dụng fixing rates như là một chỉ báo xu hướng. Sự kỳ vọng hay tin đồn của một ngân hàng trung ương can thiệp vào thị trường ngoại hối có thể sẽ đủ để ổn định thị trường tiền tệ, nhưng sự can thiệp tích cực có thể được sử dụng nhiều lần trong mỗi năm có thể làm cho những tác động phụ không tốt lên chế độ tiền tệ của quốc gia đó.
Và ngân hàng trung ương không hề muốn xảy ra như vậy. Các nguồn lực kết hợp của thị trường có thể dễ dàng áp đảo bất cứ ngân hàng trung ương nào. Một kịch bản của trường hợp này chính là giai đoạn 1992-1993, cơ chế tỉ giá Châu Âu sụp đổ và trong thời gian gần đây là ở Châu Á.
Hedge funds as speculators: Khoảng 70-90% các giao dịch ngoại hối là đầu cơ. Điều này có nghĩa là phần lớn những giao dịch trên thị trường tiền tệ là đến từ những nhà đầu cơ, thậm chí là các tổ chức, ngân hàng, quỹ… cũng tham gia dưới hình thức đầu cơ ngắn hạn. Điều này cũng dễ hiểu thôi, thị trường tiền tệ là thị trường biến động mạnh nhất và tiềm ẩn nhiều rủi ro nếu để lệnh quá lâu, do đó để đảm bảo hạn chế rủi ro và giữ được lợi nhuận một cách tốt nhất thì người ta chọn phương án đầu cơ ngắn hạn.
Từ năm 1996, các quỹ đầu cơ đã đạt được bước tiến tích cực trong đầu cơ tiền tệ của họ, họ kiểm soát hàng tỉ USD của vốn chủ sở hữu và có thể vay thêm hàng tỉ USD, và do đó có thể lấn át được những can thiệp của ngân hàng trung ương nếu các nguyên tắc kinh tế cơ bản đang ủng hộ các quỹ đầu cơ.
Công ty quản lý đầu tư: Công ty quản lý đầu tư (những người quản lý các tài khoản lớn thay mặt cho khách hàng) sử dụng trên thị trường ngoại hối để tạo thuận lợi cho các giao dịch với nước ngoài. Ví dụ, một nhà quản lý đầu tư mang một danh mục đầu tư cổ phần quốc tế cần phải mua và bán một số cặp ngoại tệ để thanh toán cho việc mua bán chứng khoán nước ngoài.
Một số công ty quản lý đầu tư cũng có chuyên gia dự đoán hoạt động tiền tệ, trong đó quản lý rủi ro của khách hàng với mục đích tạo ra lợi nhuận cũng như hạn chế rủi ro. Trong khi số lượng loại hình này là khá nhỏ, khá nhiều người trong số đó có tài sản giá trị lớn và dó đó họ có thể tạo ra các giao dịch lớn.
Những Trader nhỏ lẻ trên thị trường ngoại hối: Trader đầu cơ nhỏ lẻ tạo thành một phân khúc phát triển của thị trường này, với sự ra đời của hình thức cho phép các nhà đầu tư nhỏ lẻ tham gia vào thị trường ngoại hối đã và đang góp phần thúc đẩy tăng trưởng cũng như tăng cao cả về quy mô và tầm quan trọng của thị trường tiền tệ.
Hiện nay những nhà đầu tư nhỏ lẻ tham gia một cách gián tiếp thông qua người môi giới hoặc ngân hàng. Môi giới cho retail trader, trong khi phần lớn được kiểm soát và điều tiết bởi Ủy ban giao dịch hàng hóa tương lai và National Futures Association tại Mỹ.
Có hai loại chính của các nhà môi giới retail trader FX cung cấp các cơ hội kinh doanh đầu cơ tiền tệ: Brokers và Dealers hoặc các nhà hoạch định thị trường. Brokers tương tự như là một đại lý của các khách hàng trong thị trường FX rộng lớn. Họ tính tiề hoa hồng hoặc các khoản phí thu từ giao dịch của khách hàng. Dealers hoặc các nhà hoạch định thị trường, thường đóng vai trò chủ yếu trong giao dịch so với các retail trader.

Các công ty ngoại hối phi ngân hàng: Các công ty ngoại hối phi ngân hàng cung cấp trao đổi tiền tệ và thanh toán quốc tế cho các cá nhân và các công ty tư nhân. Đây cũng được biết đến như các nhà môi giới ngoại hối nhưng khác biệt ở chỗ không được cung cấp dịch vụ kinh danh đầu cơ và là trao đổi tiền tệ với các thanh khoản.
Người ta ước tính tại Anh, 14% số tiền chuyển nhượng/thanh toán thực hiện thông qua các công ty ngoại hối. Lợi thế là các công ty này cung cấp tỉ giá sẽ tốt hơn so với các ngân hàng, do vậy sẽ có lợi hơn cho những cá nhân muốn thực hiện các giao dịch thanh toán/chuyển nhượng. Các công ty này có sự khác biệt từ việc chuyển tiền/chuyển tiền vào công ty, các dịch vụ họ cung cấp thường có giá trị cao hơn.
Chuyển tiền / Công ty chuyển tiền và quầy đổi ngoại tệ: Công ty chuyển tiền thực hiện khối lượng chuyển đổi giá trị các đồng tiền xuyên quốc gia. Một ví dụ điển hình loại hình thức này được biết đến nhiều nhất hiện tại là dịch vụ chuyển tiền Western Union với 345000 đại lý trên toàn thế giới. Quầy đổi ngoại tệ hoặc công ty chuyển đổi tiền tệ cung cấp dịch vụ ngoại hối có giá trị thấp cho du khách, tức là tại các quầy đổi tỉ giá này khách hàng sẽ được quy đổi tiền tệ với giá trị tốt nhất cho họ.
2. Đặc điểm kinh doanh của thị trường tiền tệ
Do các over-the-counter (OTC) bản chất thị trường tiền tệ, chứ không phải là một thị trường liên kết với nhau, nơi các công cụ tiền tệ khác đang được giao dịch. Điều này ngụ ý rằng không phải là một tỉ giá hối đoái đơn lẻ mà là một số mức độ khác nhau (giá cả), tùy thuộc vào những gì ngân hàng hoặc những nhà tạo lập thị trường.
Do sự thống trị của thị trường London, giá niêm yết một loại tiền tệ đặc biệt của thị trường là giá thị trường London. Trao đổi thương mại lớn bao gồm Electronic Broking Services (EBS) và Thomson Reuters xử lý, trong khi các ngân hàng lớn cũng cung cấp hệ thống giao dịch.
Môt liên kết giữa các sàn giao dịch Chicago và Reuters gọi là Fxmarketspace mở cửa vào năm 2007 nhưng không thành công với vai trò của một thị trường trung tâm của cơ chế thanh toán bù trừ.
Các trung tâm thương mại chính là London và thành phố New York, bên cạnh đó Tokyo, Hong Kong và Singapore là các trung tâm quan trọng khác. Các ngân hàng trên khắp thế giới tham gia vào thị trường này, kinh doanh tiền tệ diễn ra liên tục trong suốt cả ngày, điều này được giải thích sau: khi phiên giao dịch châu Á kết thúc, phiên châu Âu lại bắt đầu, và tiếp theo là phiên Bắc Mỹ và rồi lại tiếp diễn chu kỳ với phiên châu Á. Thị trường tài chính sẽ ngừng giao dịch vào 2 ngày thứ 7 và chủ nhật cuối tuần.
Biến động tỉ giá hối đoái thường do các dòng chảy tiền tệ thực tế cũng như những kỳ vọng của những thay đổi trong dòng chảy tiền tệ gây ra, những điều này do những thay đổi trong tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP), lạm phát (ngang giá sức mua theo lý thuyết), lãi suất, thâm hụt ngân sách và thương mại hoặc thặng dư, các điều kiện kinh tế vĩ mô khác.
Tin tức quan trọng được phát hành công khai, thường vào thời gian đã định trước, rất nhiều người dân, nhà đầu tư sẽ được tiếp cận với những tin tức tương tự cùng một lúc. Tuy nhiên các ngân hàng lớn sẽ có những lợi thế quan trọng nhất định, họ có thể thấy được dòng tiền của khách hàng đang chạy về đâu.
Đơn vị tiền tệ được giao dịch với nhau theo mỗi cặp.
Mỗi cặp tiền tệ tạo thành một sản phẩm kinh doanh và theo truyền thống ghi nhận thì ký hiệu các cặp tiền sẽ như sau: XXXYYY, XXX/YYY, trong đó XXX và YYY là ký hiệu chuẩn cho các đồng tiền từng quốc gia trên thế giới. Đồng tiền đầu tiên XXX là đồng tiền cơ bản được so sánh tương đối với đồng tiền thứ 2(YYY), gọi là tỉ giá.
Ví dụ, báo giá cặp EURUSD(EUR/USD) =1,2345 thì điều này có nghĩa là giá của đồng EUR được thể hiện bằng USD, là 1 EUR=1,2345 USD. Các cặp tiền chính thông thường so sánh với USD bởi vì đồng USD là đồng tiền cơ bản (ví dụ như cặp USDJPY, USDCAD, USDCHF). Các trường hợp ngoại lệ là những đồng Bảng Anh (GBP), Đồng đô la Úc (AUD), Đồng đô la New Zealand (NZD) và đồng Euro (EUR) thì khi so sánh với những đồng tiền trên USD là đồng tiền được so sánh (ví dụ như GBPUSD, AUDUSD, NZDUSD, EURUSD).

Thống kê vào năm 2013 cho thấy các cặp tiền được giao dịch nhiều nhất là: EURUSD (24.1%), USDJPY (18.3%), GBPUSD (8.8%). Và trong đó đồng USD chiếm tỉ lệ 87% các giao dịch trên thị trường, tiếp theo là đồng EUR (33.4%), đồng Yên (23.0%), bảng Anh (11.8%). Tỉ lệ % khối lượng do tất cả các loại tiền tệ lên đến 200%, như là mỗi giao dịch liên quan đến 2 đồng tiền cho nên mới tính lên đến 200%.
3. Yếu tố quyết định tỉ giá hối đoái
Các lý do sau đây giải thích sự biến động về tỉ giá hối đoái trong một chế độ thả nổi tỉ giá (trong một cơ chế tỉ giá hối đoái cố định, giá được quyết định bới chính phủ)
Yếu tố kinh tế: Bao gồm: (a) chính sách kinh tế, phổ biến bởi các cơ quan chính phủ và các ngân hàng trung ương, (b) Các điều kiện kinh tế, nói chung là tiết lộ thông qua các báo cáo kinh tế, các chỉ số kinh tế.
- Chính sách kinh tế của chính phủ bao gồm chính sách tài khóa (thực hành ngân sách/chi tiêu) và chính sách tiền tệ (các phương tiện mà ngân hàng trung ương áp dụng trong việc điều tiết thị trường, được phản ánh bởi lãi suất).
- Thâm hụt hoặc dư thừa ngân sách của chính phủ: Các thị trường thường phản ứng tiêu cực trong trường hợp thâm hụt ngân sách chính phủ và tích cực khi các khoản thâm hụt được thu hẹp lại. Các tác động được phản ánh trong giá trị của đồng tiền một quốc gia.
- Cân bằng các mức độ và xu hướng thương mại: Các dòng chảy thương mại giữa các quốc gia cho thấy nhu cầu đối với hàng hóa và dịch vụ, từ đó cho thấy nhu cầu đối với đồng tiền của một quốc gia để từ đó tiến hành thương mại hóa. Thặng dư và thâm hụt thương mại hành hóa và dịch vụ phản ánh năng lực cạnh tranh của nền kinh tế của một quốc gia. Ví dụ, thâm hụt thương mại có thể có một tác động tiêu cực đến đồng tiền của một quốc gia.
- Mức độ và xu hướng lạm phát: Thông thường một đồng tiền sẽ mất giá nếu có một mức độ cao của lạm phát trong nền kinh tế hoặc nếu mức độ lạm phát được cảm nhận là sẽ tăng lên. Điều này là do lạm phát làm xói mòn sức mua, tuy nhiên một
- đồng tiền đôi khi có thể tăng mạnh khi lạm phát tăng do kỳ vọng rằng các ngân hàng trung ương sẽ tăng lãi suất ngắn hạn để chống lại lạm phát.
- Tăng trưởng và sức khỏe nền kinh tế: Các báo cáo như GDP, mức độ việc làm, doanh số bán lẻ, công suất sử dụng và những thứ khác, cụ thể các mức tăng trưởng kinh tế và sức khỏe của một quốc gia. Nói chung, nền kinh tế của một quốc gia tăng trưởng mạnh mẽ hơn, đồng tiền vì thế cũng tăng lên và các nhu cầu trong nền kinh tế cũng tăng lên.
- Năng suất của một nền kinh tế: Tăng năng suất trong một nền kinh tế tích cực nên ảnh hưởng đến giá trị của đồng tiền. Điều này hoàn toàn dễ hiểu khi năng suất tăng cao thì nguồn cung vì thế cũng dồi dào hơn, giá trị của hàng hóa có thể giảm nhưng chi tiêu sẽ tăng lên, lạm phát có xu hướng tăng thì đồng tiền vì thế cũng tăng theo.
Điều kiện chính trị: Điều kiện và các sự kiện chính trị nội bộ, khu vực và quốc tế có thể ảnh hưởng sâu sắc trên thị trường tiền tệ. Tỉ giá hối đoái sẽ bị ảnh hưởng rất lớn khi có một sự mất ổn định chính trị, biến động chính trị và bất ổn có thể có một tác động tiêu cực đến nền kinh tế của một quốc gia.
Ví dụ, mất ổn định của chính phủ liên minh ở Pakistan và Thái Lan có thể ảnh hưởng tiêu cực đến đồng tiền của họ. Tương tự như vậy, ở một đất nước gặp khó khăn về tài chính, sự nổi lên của một phe nhóm chính trị có thể sẽ khiến tình hình chính trị của quốc gia đó bất ổn.
Ngoài ra các sự kiện trong một quốc gia trong khu vực nếu như có diễn biến tiêu cực với một quốc gia khác thì cũng sẽ ảnh hưởng đến đồng tiền của mình.
Tâm lý thị trường: Tâm lý thị trường và trader nhận thức được ảnh hưởng của tâm lý đến giao dịch trên thị trường ngoại hối theo nhiều cách sau:
- Bất ổn chính trị hoặc kinh tế: Hiển nhiên rồi, nếu chúng ta đang sống trong một giai đoạn bất ổn về chính trị thì tâm lý lo sợ đồng tiền sẽ mất giá, điều này sẽ càng làm tồi tệ hơn khi người ta sẽ bán tháo đồng tiền quốc nội để chạy vào một lớp tài sản an toàn hơn, cũng tương tự như thế nếu là một bất ổn kinh tế thì người ta cũng lo ngại rằng suy thoái kinh tế sẽ buộc chính phủ phải thực hiện các biện pháp mang tính nới lỏng trong nền kinh tế, hiển nhiên điều này làm cho người ta lo ngại rằng kinh tế suy yếu thì đồng tiền cũng sẽ giảm theo.
- Xu hướng dài hạn: Thị trường tiền tệ thường xuyên theo một xu hướng trong dài hạn, nghĩa là trong bất kỳ một chu kỳ kinh tế thì một đợt suy thoái hay tăng trưởng thường sẽ kéo dài một vài năm, do đó giá trị đồng tiền cũng sẽ tương ứng. Mặc dù tiền không có chu kỳ sinh trưởng hàng năm như hàng hóa vật chất. Trong quá trình phân tích xu hướng nền kinh tế hoặc tình hình chính trị chúng ta có thể nhìn vào bức tranh trong dài hạn của xu hướng đồng tiền quốc gia đó.
- Mua tin đồn, bán sự thật: Câu nói này cũng chính là kim chỉ nam trong hầu hết những phân tích liên thị trường mà chúng ta đang nói đến. Đó là xu hướng cho giá của một loại tiền tệ để phản ánh tác động của một hành động cụ thể trước khi nó xảy ra, và khi các sự kiện được mong đợi đến thì lúc này đây có thể sẽ phản ứng ngược lại với những gì chúng ta mong muốn
- Tuy nhiên đại ý của câu nói trên bán sự thật tức là chúng ta sẽ không cần phải ở lại trong thị trường cho tới lúc các sự kiện được công bố, mà ý nói là khi tin đồn đã có tức là thị trường đã phản ứng theo cái tin đồn đó rồi, cho nên cái bán sự thật là thời điểm chúng ta thoát khỏi thị trường chính là thời điểm mà sự thật sắp được công bố, sở dĩ làm như vậy là để đảm bảo lợi nhuận chúng ta đã kiếm được trong thời gian trước đó không bị thị trường lấy lại.
- Những con số kinh tế: Chỉ số kinh tế chắc chắn có thể phản ánh chính sách kinh tế, trong những năm gần đây, cung tiền, việc làm, số liệu cán cân thương mại và lạm phát… đều có những tác động đáng kể đến tâm lý những người giao dịch, họ dựa vào những con số đó và tiên đoán cho xu hướng tương lai của nền kinh tế và tiên đoán xu hướng đồng tiền quốc gia đó.
- Giao dịch theo kỹ thuật: Như trong các thị trường khác, các biến động giá tích lũy trong một cặp tiền như EURUSD có thể hình thành mô hình rõ ràng mà các trader có thể cố gắng dựa vào đó để tiên đoán xu hướng cặp tiền này. Việc nghiên cứu các mô hình như vậy trên biểu đồ sẽ giúp các nhà đầu tư có được cái nhìn tốt hơn và dự đoán được tâm lý của đại bộ phận nhà đầu tư khác.
Như vậy những yếu tố quyết định đến tỉ giá chúng ta tìm hiểu ở trên sẽ là những nội dung chính mà chúng ta đi sâu vào các chương tiếp theo, những yếu tố tác động đến tỉ giá của một cặp tiền sẽ rất nhiều và những yếu tố đó chúng ta sẽ phải đi sâu vào trong từng sự kiện mới có thể hiểu được, trong phần tổng quan này Tôi sẽ chỉ nêu lên những yếu tố chính tác động lên thị trường tiền tệ, những ví dụ thực tiễn trong những giao dịch hàng ngày mới chính là mục đích mà chúng ta cần nắm vững.
4. Đầu cơ
Như có nói ở trên 70-90% những giao dịch trên thì trường tiền tệ là đầu cơ, và do đó nếu không muốn nói là tất cả những Trader Việt tham gia vào thị trường tiền tệ đều chính là những nhà đầu cơ đúng nghĩa.
Đầu cơ tiền tệ được coi là một hoạt động rất nghi ngờ trong nhiều quốc gia. Trong khi đầu tư vào các công cụ tài chính truyền thống như trái phiếu hoặc cổ phiếu thường được coi là đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế bằng cách cung cấp vốn, theo quan điểm này đầu cơ tiền tệ chỉ đơn giản là cờ bạc mà thường gây trở ngại với chính sách kinh tế. Ví dụ, trong năm 1992 đầu cơ tiền tệ đã buộc Ngân hàng trung ương Thụy Điển tăng lãi suất trong vài ngày tới 500% mỗi năm, và sau đó phải phá giá đồng Krona.

5. Carry Trade
Carry trade đề cập đến hành vi vay một loại tiền tệ có lãi suất thấp để mua đồng tiền có lãi suất cao hơn. Một sự khác biệt lớn về tỉ lệ có lợi nhuận cao cho các trader, đặc biệt là đòn bẩy được sử dụng. Tuy nhiên với tất cả các khoản đầu tư có vay nợ này là một con dao hai lưỡi, và biến động tỉ giá một cách đột ngột có thể khiến họ chịu những tổn thất rất lớn.
Trong những chu kỳ của nền kinh tế và gần đây nhất là thời điểm hậu khủng hoảng 2008, hình thức carry trade được biết đến như là một cứu cánh an toàn, đặc biệt là với cặp tiền AUDJPY.
Đơn giản vì chính phủ Nhật thực hiện chính sách lãi suất thấp kỷ lục trong khoảng thời gian dài do lo ngại giảm phát kéo dài, nền kinh tế già nua và tăng trưởng chậm lại, với bản chất là nền kinh tế lấy xuất cảng làm trọng thì buộc chính phủ Nhật phải giảm lãi suất càng thấp càng tốt và làm sao để đồng JPY giảm càng thấp càng tốt, bên cạnh đó lãi suất của Úc là đang cao so với hầu hết các ngân hàng trung ương khác.
Như vậy việc nhà đầu tư thực hiện carry trade với cặp tiền AUDJPY là hoàn toàn hợp lý.

Giá trị đồng tiền của một nước phụ thuốc vào chính nền kinh tế của quốc gia đó. Khi nền kinh tế tăng trưởng sẽ làm tăng giá trị của đồng tiền bản địa và ngược lại. Nếu linh hồn của bond là yield thì linh hồn của currency lại là RATE. Rate ở đây chính là interest rate (lãi suất). Trong hầu hết các trường hợp vận động thay đổi của lãi suất sẽ quyết định sự tăng giảm của đồng tiền cơ sở.
Một sự tăng lên trong lãi suất sẽ làm tăng giá đồng tiền, một sự giảm trong lãi suất sẽ làm giảm giá trị của nó. Lãi suất là một biến số vĩ mô quan trọng. Mặt trái của lãi suất chính là lạm phát. Trong các thời kỳ tăng trưởng quá nóng, nhu cầu tiêu thụ hàng hóa tăng cao thường sẽ đẩy lạm phát lên theo vật giá.
Sự gia tăng lạm phát là nguyên nhân làm mất giá đồng tiền gây ảnh hưởng đến các biến số vĩ mô khác. Để chống lại sự mất giá tiền tệ đó, một trong những biện pháp phổ biến và thường hay được dùng đó là tăng lãi suất (chính sách tiền tệ thắt chặt). Trong trường hợp ngược lại, vào những thời kỳ kinh tế trì trệ, các central bank trên thế giới thường áp dụng chính sách lới lỏng, một trong các cách thức lới lỏng đó là hạ lãi suất.
Trading thành công trong currency market thường đòi hỏi trader phải dõi theo các vận động của lãi suất. Do đó, hành động của các ngân hàng trung ương, các phát biểu của quan chức central bank là những sự kiện luôn được trader theo dõi chặt chẽ.
Động thái lãi suất đồng tiền của một quốc gia cơ bản được quyết định bởi các ngân hàng trung ương nước đó. Các central bank thường đưa ra các quyết định về lãi suất trên cơ sở xem xét các biến số vĩ mô quan trọng. Một trong các biến số đó là chỉ số lạm phát. Lạm phát trong kinh tế thông thường được đo bằng hai cách. Trên phương diện tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ người ta có chỉ số CPI (consummer price index), trên phương diện sản xuất hàng hóa người ta có chỉ số PPI (produce price index).
Ở bài viết tiếp theo, chúng ta chuyển qua một bộ phận cấu thành quan trọng thứ tư là thị trường vốn/cổ phiếu.